BIẾT ƠN MÌNH

Chuly sưu tầm

Bài rất hay dành cho người có tuổi – BS. Đỗ Hồng Ngọc.
BIẾT ƠN MÌNH
http://littlesaigonradio.com/…/bai’_doc_BIET’_ON_MINH’_cua_…

Ngay từ thuở nhỏ ta được dạy nói cảm ơn khi ai đó giúp mình. Lời cảm ơn không phải để xã giao mà thật sự biểu lộ lòng biết ơn chân thành của mình đối với người đó. Thế nhưng có lẽ chưa bao giờ ta được dạy nói cảm ơn ta vì nhiều khi ta coi chuyện cảm ơn mình là một điều gì đó lố bịch, kỳ cục, không cần thiết! Trái lại nhiều khi ta còn có khuynh hướng nói xấu mình, bất mãn với mình, thậm chí…nguyền rủa mình.

Nhiều người lớn tuổi nhìn vào gương mỗi ngày thấy mình già đi với những dấu chân chim ở đuôi mắt, vết hằn ở khóe miệng, nếp nhăn nhúm ở bàn tay…đã không thể chấp nhận được mình, đã âu sầu buồn bã, có người phải căng da mặt, bơm xóa vết nhăn hy vọng giữ mãi vẻ trẻ trung nhưng chỉ được một thời gian ngắn rồi cũng “hiện nguyên hình”, có khi tệ hơn!

Xây dựng hình ảnh về chính mình (self image) rất quan trọng. Nếu đó là một hình ảnh tích cực, nó sẽ giúp cho mình tự tin hơn và từ đó ảnh hưởng đến “môi trường”xung quanh, còn nếu là một hình ảnh tiêu cực thì sẽ rất không hay.

Có món đồ nào mà xài vĩnh viễn đâu, ngay cả những máy móc tinh xảo được làm bằng những thứ kim loại tốt nhất. Gần đây thấy trên báo quảng cáo một cái tủ lạnh cũ của Thụy Sĩ rằng đã được xài đến 20 năm mà vẫn còn chạy tốt.Như vậy nhiều người trong chúng ta có thể vỗ ngực nói rằng mình đã “xài”đến sáu bảy chục năm mà hãy còn ngon đó chứ! Vậy ta phải biết ơn mình nhiều hơn.

Hãy thử xem bộ xương. Cơ thể ta có trên hai trăm cái xương lớn nhỏ được ráp nối với nhau để thành một khung xương, hoạt động được là nhờ các khớp, cũng đã xài được hằng mấy chục năm trời mà chẳng phải bơm dầu trét mỡ gì cả. Vậy mà nó vẫn làm việc trơn tru, êm rơ, chỉ khi ta tích tuổi, lớn tuổi rồi nó mới bị đau nhức chút đỉnh thì cũng phải thôi! Nhiều khi chỉ vì từ nhỏ ta đã không biết chăm sóc bộ xương đã làm cho nó bị lệch lạc đi như bị vẹo cột sống ở tuổi học đường, hoặc ăn những thức ăn làm cho các chất hoạt dịch giữa các khớp bị đơ cứng lại.

Ngay ở giai đoạn chấm dứt tuổi dậy thì, bộ xương đã hình thành với khối lượng xương cố định, chủ yếu là do di truyền nhưng cũng một phần do dinh dưỡng. Nếu biết quan tâm, thì ngay từ nhỏ đã phải được bồi dưỡng tốt để xương phát triển đầy đủ. Người lớn tuổi dễ bị loãng xương, dễ bị té ngã, đưa đến gãy xương, trật khớp. Nhìn một cành khô và một cành tươi thì biết. Cành tươi khó gãy vì vỏ dày, gỗ dai, nếu gãy cũng thường gãy dập; còn cành khô thì vỏ mỏng, gỗ giòn, khi gãy dễ gãy lọi. Nghiên cứu cho thấy người lớn tuổi, sau tuổi 65, rất dễ bị té ngã. Nữ dễ bị hơn nam.

Ngoài những chuyện gãy xương, trật khớp, rách cơ, dập phần mềm…còn có những biến chứng gần xa khác như viêm phổi, loét da, do phải nằm bất động trong một thời gian lâu dài. Để giảm bớt nguy cơ té ngã ở người lớn tuổi, cần quan tâm tới môi trường sống của họ. Chẳng hạn các cầu thang trong nhà sao cho dễ đi, không trơn trợt, bậc thang đều, ánh sáng đầy đủ. Tuổi gia mắt kém, cảm giác về độ chênh không còn chính xác, phản xạ chậm, cơ thể điều hòa vận động giảm nên rất dễ té.

Người lớn tuổi vẫn cần phải tích cực vận động – tập dưỡng sinh, đi bộ, chơi thể thao chẳng hạn – để tăng tính linh hoạt của các khớp và giúp cho cơ duy trì sự dẻo dai. Người ít vận động hoặc phải nằm một chỗ, tình trạng loãng xương càng xảy ra nhanh. Thuốc lá và rượu góp phần tăng tốc. Việc sử dụng estrogen để bù đắp phải được hướng dẫn và kiểm soát chặt chẽ bởi các bác sĩ chuyên khoa. Điều đáng để ý là một người khi lớn tuổi bị té ngã một lần thì về sau thì sợ hãi, ít dám vận động, do vậy mà sự phối hợp giữa thần kinh cơ càng kém, lại càng dễ bị té ngã những lần sau. Sự bảo bọc quá đáng của người thân trong gia đình càng làm cho người già thêm mau suy yếu.

Rồi thử xem bộ máy tuần hoàn của ta. Nếu biết rằng mỗi ngày trái tim ta phải co bóp cả trăm ngàn lần để đẩy một khối lượng máu khoảng 7.000kg không ngừng nghỉ, kể cả lúc ta ngủ, đi vào một hệ thống mạch máu giăng mắc mà chỉ riêng hệ thống vi mạch nếu nối lại đã dài hàng trăm ngàn cây số (hơn gấp đôi chu vi trái đất) để nuôi cơ thể, ta mới thấy sức hoạt động của bộ máy tuần hoàn tuyệt vời đến thế nào! Có cái máy bơm nào làm việc liên tục với khối lượng như vậy hằng bảy tám chục năm trời mà không phải thay pin, không phải chùi rửa gì cả?

Vậy mà chẳng những ta không nhớ, không biết ơn nó, nhiều khi ta còn hành hạ nó, đầu độc nó, buộc nó nhảy tưng lên với những chất như rượu, trà, cà phê, thuốc lá…Chất nicotine trong thuốc lá chẳng hạn, chẳng những buộc nó phải làm việc nhanh lên mà còn lại co thắt các mạch máu nuôi dưỡng nó, làm cho nó bị thiếu dưỡng khí. Ta lại còn đầu độc tinh thần nó bằng cách luôn rên rỉ “Một trái tim khô, một trái tim mùa đông” hay hất hủi nó: “ngày rời Paris anh đã để quên con tim”…Thật ra một trái tim bình thường làm việc âm thầm bền bỉ đến nỗi ta tưởng như không có nó. Lúc nó lên tiếng “nhắc nhở”thì đã rắc rối rồi! Cho nên có một trái tim lành mạnh thật hạnh phúc mà nhiều khi ta không biết!

Còn mạch máu của ta cũng giống như những ống nước vậy. Khi ống nước còn mới thì nó dẻo dai, co giản dễ dàng, không có chuyện gì xảy ra, còn ống nước đã cũ thì khô cứng lại, độ thun giãn kém đi. Ở người cao tuổi, các mạch máu cũng dễ cứng hơn nên huyết áp dễ bị tăng cao. Huyết áp cao quá có thể gây ra những tai biến. Tăng huyết áp phải được theo dõi chữa trị đến nơi đến chốn. Bệnh tiểu đường càng làm gia tăng tình trạng tắc nghẽn mạch. Do vậy, các nhà chuyên môn đều khuyên ta bớt ăn đường, bớt uống rượu, bớt ăn muối, bớt ăn mỡ, không hút thuốc…

Rồi thử xem buồng phổi của ta. Đó là nơi ta trao đổi không khí để sống. Người ta có thể nhịn đói vài ba tuần, nhịn khát mười ngày nhưng không thể nhịn đói vài ba tuần, nhịn khát mười ngày nhưng không thể nhịn thở quá năm phút. Thiếu oxy (dưỡng khí) chừng năm phút thì các tế bào não sẽ bị hủy hoại, không phục hồi được nữa. Có lẽ vì không khí không phải mất tiền mua nên ta thường coi như không hề có nó. Ta vẫn thở mỗi phút giây mà không nhận thấy không khí là cần! Có một buồng phổi hoạt động tốt ta chẳng hề quan tâm, thậm chí chẳng hề biết đến nó, cho đến lúc nó khò khè có cử thì lúc đó ta mới thật sự hốt hoảng.

Nói chung chúng ta thường không biết thở, không thèm thở, nhất là những lúc làm việc hăng say gần như quên thở hoặc những lúc có những cảm xúc mạnh như lo lắng, giận dữ ta cũng thường quên thở, nín thở. Thở là một phản xạ tự động nhưng ta lại có thể kiểm soát được hơi thở, nhịp thở, khác hẳn với các cơ chế tự động khác như của quả tim, mạch máu, dạ dày, gan ruột…hoạt động hoàn toàn ngoài ý muốn của ta. Cho nên ta có thể luyện thở được.

Buồng phổi của ta có khoảng 300 triệu phế nang, trải rộng ra ta có một diện tích rộng hơn 80m2, lớn hơn một phòng học. Mỗi khi ta hít phải không khí ô nhiễm bụi khói, vi khuẩn, thì lớp không khí ô nhiễm đó sẽ tràn ngập lên toàn bộ diện tích của phế nang. Khi còn là những lá phôi thì phổi và da có cùng nguồn gốc, do vậy mà sau này khi gặp lạnh tự nhiên ta sinh ra ho hen, đặc biệt người cao tuổi dễ bị viêm phổi do lạnh. Hệ thống hô hấp không chỉ có phổi mà còn có mũi, họng, thanh quản, khí quản cùng các cơ hô hấp mà cơ hoành là cơ trọng yếu nhất.

Ở mũi chúng ta chẳng hạn có một hệ thống mao mạch dày đặc để sưởi không khí, làm cho không khí ấm lại trước khi vào phổi. Gặp lạnh, ta sẽ bị ách xì, sổ mũi, nghẹt mũi vì các mao mạch trương nở. Không phải vô cớ mà người lớn tuổi thường khoác một chiếc khăn quàng cổ khi ra đường vì khi gặp lạnh chiếc khăn quàng sẽ giúp làm ấm mũi.

Những người cao tuổi còn khỏe mạnh, sáng suốt, làm việc không biết mệt là những người biết…thở. Họ có những phương pháp “bì truyền”thường được gọi là dưỡng sinh, khí công, thiền, yoga…Có khi ta còn nghe được những câu có vẻ huyền bí như “đưa hơi xuống huyệt đan điền…”Thực ra không có gì là bí hiểm cả mà hoàn toàn có cơ sở sinh học. Ta biết cơ hoành là cơ hô hấp chính nằm vắt ngang giữa bụng và ngực, “phụ trách” 80% khối lượng hoạt động hô hấp. Cơ hoành di chuyển lên xuống như một cái piston trong lồng ngực làm cho buồng phổi nở rộng hoặc thu hẹp thể tích. Do vậy khi ta hít sâu thì cơ hoành bị đẩy xuống đến tận…dưới rún, nơi được gọi là huyệt đan điền hay khí hải.

Như vậy “đưa hơi xuống huyệt đan điền” thực chất là hít sâu đẩy cơ hoành lên xuống mạnh hơn, cơ hoành di chuyển rộng hơn, nhờ đó sự thông khí sẽ tốt hơn. Càng lớn tuổi cơ hoành càng làm biếng, nên người lớn tuổi cần luyện thở, tập dưỡng sinh, thì cơ hoành mới làm việc tốt hơn.

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) thường gặp ở người lớn tuổi, làm cho họ dễ mệt mỏi, hụt hơi, cũng như bệnh giãn phế quản làm cho họ khạc rất nhiều mỗi sáng. Ngày càng có nhiều người bị ung thư phổi do hút thuốc lá. Nhiều người già bị lao là nguồn lây bệnh trong gia đình mà không biết.Giữ môi trường trong sạch, tạo nhiều cây xanh bóng mát, gần gũi với thiên nhiên, tập thở đúng phương pháp, tránh thuốc lá..là những cách tốt nhất để biết ơn buồng phổi của ta vậy.

Lý Lập Ông, thế kỷ XVI, viết trong Nhàn tình ngẫu hứng: “Xét cơ thể con người, tai mắt mũi, tay chân, thân thể hết thảy đều cần thiết…chỉ có hai cái không cần thiết mà trời phú cho ta là cái miệng và cái bao tử, nguồn gốc tất cả những cái lụy của loài người từ xưa tới nay. Có cái miệng với cái bao tử nên sinh kế mới hóa ra phiền phức, sinh kế phiền phức mới sinh ra những mưu mô gian trá, mưu mô gian trá mới phải đặt ra hình pháp…”.

Lâm Ngữ Đường có lẽ cũng đống ý như thế nên ông cũng viết: “Chúng ta có một cái bao không đáy gọi là bao tử…Nó ảnh hưởng đến văn mình của nhân loại…Các hội nghị quốc tế căng thẳng đến thế nào, tới giờ cũng dừng lại để ăn….”. Rồi ao ươc: “Nếu con người có được cái diều như diều chim, có cái dạ dày của loài nhai lại chắc là không có tình trạng hiếu chiến, tàn ác vì loài ăn cỏ, ăn hạt đều hiền lành, loài ăn thịt đều hiếu sát”. Ông cũng đưa ra một nhận xét thú vị: “Gà trống cũng thường đá nhau nhưng không phải vì thức ăn mà vì gà mái. Con người mà có cái diều như gà thì chỉ còn những cuộc chiến nho nhỏ chứ không phải cần đến chiến tranh lớn để xuất cảng đồ hôp” . (Sống đẹp, bản dịch Nguyễn Hiến Lê). Thật tội nghiệp cho cái “bao không đáy” còn gọi là bao tử hay dạ dày của chúng ta!

LÂM NGỮ ĐƯỜNG

Đó là một bộ phận quan trọng của hệ tiêu hóa, đảm nhận việc “nạp năng lượng”để ta duy trì sự tồn tại và hoạt động suốt cả cuộc đời. Cái bao không đáy đó thực ra nó đã phải làm việc căng thẳng vất vả, co bóp, nhào nặn thức ăn thức uống suốt ngày đêm để cung cấp cho ta những chất dinh dưỡng cần thiết cho cuộc sống. Nó làm việc âm thầm không hề kể công, hoàn toàn ở ngoài ý thức của ta vì khi nó nhào nặn co bóp như vậy ta không hề hay biết.

Để tiêu hóa được thức ăn, dạ dày phải tiết ra một chất acid mạnh mà nếu không khéo tự bảo vệ mình thì acid này sẽ tiêu hóa ngay chính bản thân nó, làm cho nó lở loét tùm lum mà ta gọi là loét bao tử (loét dạ dày). Thường nếu có lở loét thì dạ dày cũng âm thầm tự băng bó lấy cho mình, đến khi quá lắm thì mới kêu ca, lên tiếng, lúc đó ta có cái gọi là đau bao tử.

Nói chung ít khi ta thượng hại cái dạ dày của mình đừng nói chuyện biết ơn nó, trái lại ta sẵn sàng nhồi nhét vào đó càng nhiều càng tốt từ thịt cá voi đến rắn mối, thằn lằn, tác kè, chuột bọ, cào cào, châu chấu, nghêu sò ốc hến…Ta cũng sẵn sàng đổ vào hằng lít rượu đế, whisky, hằng két bia và vô số những chất độc hại khác như…thuốc trừ sâu, giun đầu gai v.v..Để ý một chút, ta thấy hệ tiêu hóa là một cái ống cơ dài từ miệng đến hậu môn, phình ra chỗ này, thắt lại chỗ kia để trở thành thực quản, dạ dày, ruột non, ruột già…Thức ăn thức uống đi xuyên qua cái ống đó là đã đi bên ngoài cơ thể, mà các bộ phận được phân công cắt xé, nghiền, nhồi trộn, nhào nặn, chuyển hóa, hấp thu..để đưa vào cơ thể sử dụng.

Cả một bộ máy làm việc quần quật liên tục không mệt mỏi như vậy mới có thể đáp ứng nhu cầu năng lượng của cơ thể hằng ngày. Ta không thể tưởng tượng rằng mỗi ngày có hơn cả lít nước bọt được tiết ra là nhằm giúp cho miệng không bị khô, hôi và giúp tiêu một phần thức ăn. Ở người lớn tuổi, nước bọt tiết ra ít đi nên dễ bị đắng miệng, khô miệng, ăn không ngon.

Hệ thống nhung mao ở ruột non ngoằn ngoèo nhiều lớp có tổng diện tích lên đến 250m2, bằng cả cái sân quần vợt, để hấp thu các dưỡng trấp nuôi cơ thể trôi qua, với các tế bào hùng hục hoạt động ngày đêm để trao đổi chất, với vô số vi sinh vật li ti sản sinh ra các men tiêu hóa, các vitamin. Gan đổ mật vào ruột, tụy tạng tiết men và insulin mà nếu thiếu nó ta sẽ bị bệnh đái đường. Bất cứ có một trục trặc gì trên cái ống đó đều gây ra những rắc rối đáng tiếc như bị tắc nghẽn đâu đó chẳng hạn. Một người bị bón thường xuyên cũng làm cho cái ống bị nghẹt, dẫn đến hôi miệng, ăn mất ngon, ngủ không yên.

Lâm Ngữ Đường có một nhận xét khá thú vị: “Đối với tôi, hạnh phúc trước hết là vấn đề tiêu hóa. Ruột ta mà vận động điều hòa thì ta hạnh phúc, không thì ta khổ sở. Sự tình chỉ có vậy thôi!”. Mà thật, cứ thấy người nào mặt mày lúc nào cũng cau có, nhăn nhó, khó chịu đăm đăm…thì chắc là đã bị bón hoặc trĩ kinh niên rồi! Người lớn tuổi cũng cần phải được cung cấp năng lượng đầy đủ, cần tránh béo bệu nhưng cũng phải tránh cả suy dinh dưỡng – chủ yếu là do thiếu chất đạm.

Cũng không nên quá sợ Cholesterol vì có loại cholesterol tốt cần cho cơ thể. Nên dùng dầu thực vật. Các vitamin được cung cấp từ thức ăn như rau quả, trứng, đậu, cà rốt, rau muống, gấc…Để giữ khẩu vị được ngon vừa ý, cần thêm những gia vị mà người có tuổi vẫn quen dùng như tỏi, tiêu, ớt. Không nên kiêng cử quá đáng làm cho ăn mất ngon. Đậu nành có lẽ là một thứ thức ăn lý tưởng vừa cung cấp đạm thực vật lại có chất phytoestrogen là một loại kích thích tố nữ rất tốt để làm giảm tốc độ lão hóa.

Một bữa ăn gia đình đông vui có con cháu sum vầy thì dù là rau muống, kho quẹt, đậu hủ…cũng đem lại nhiều chất bổ dưỡng cả về tinh thần lẫn năng lượng cho người lớn tuổi. “Hãy cho tôi biết anh ăn gì, tôi sẽ cho anh biết anh là ai”. Lâm Ngữ Đường nói loài người có hai hạng, hạng ăn rau và hạng ăn thịt. Hạng ăn rau càng đông thì càng dễ có…hòa bình trên thế giới.

Rồi cái bọng đái nữa chứ. Phải bí đái một lần mới biết “giá trị”của cái bọng đái, mới biết ơn vô cùng khi có một cái bọng đái hoạt động bình thường, biết lúc nào thì phải chứa đựng, lúc nào thì phải co bóp, lúc nào thì mở cơ vòng và lúc nào phải đóng chặt lại. Thật là tai hại khi ở tuổi cao, cơ vòng bắt đầu hoạt động không tốt nữa, lúc cần đóng chặt thì nó lại mở ra, đặc biệt ở phụ nữ có tuổi.

Ở đàn ông, tuyến tiền liệt có thể phình to thành bướu chặn nghẹt đường lưu thông của nước tiểu, lúc cần tiểu lại tiểu không ra. Lại phải mổ, phải nong. Một kích thích quá mạnh như cười to, ho tràng dài hoặc vận động nhiều quá, cũng dễ bị đái són. Thuốc an thần, thuốc lợi tiểu sẽ làm cho đái són xảy ra thường xuyên hơn. Nói chung nếu tìm được nguyên nhân thì chữa trị không khó, đừng lúc nào cũng cholà tâm thần rồi bỏ mặc. Nên tập đi tiểu có giờ giấc, đừng đợi quá căng. Các loại tả lót thấm hút có thể dùng rất tiện cho người già khi đi lại tàu xe.

Cũng cần chú ý sắp xếp chỗ đi đại tiểu tiện sao cho thuận lợi, dễ đi, có đủ ánh sáng. Người mình thường coi chỗ tiểu tiện (toilet) như là một chỗ dơ bẩn xấu xí nên thường đặt ra phía sau nhà, xa nhà, trong khi đó thực ra toilet là một nhu cầu quan trọng của con người nên ở những khách sạn lớn, người ta bố trí toilet ngay trước phòng khách, sạch sẽ và thơm tho.

Mắt là giác quan quan trọng nhất của con người. Chăm sóc mắt là biện pháp nâng cao chất lượng cuộc sống. Có một quyển sách mà tác giả là một người mù, viết với lời tựa là “Nếu tôi được một ngày sáng mắt”!Những người bình thường có đôi mắt sáng nhiều khi không biết quý. Thử sống một ngày bịt kín hai mắt lại thì mới đánh giá được chất lượng cuộc sống nhờ đôi mắt.

Già thì mắt phải yếu đi, cảm giác về độ đậm cũng kém, thích nghi với bóng tối chậm và nhìn cố định không nét.Thủy tinh thể diều tiết kém nên không nhìn gần được, điều này ảnh hưởng chất lượng cuộc sống rất rõ, vì làm gì cũng phải đeo kiếng. Những nguyên nhân gây mù thường gặp là mắt hột, quáng gà, đục thủy tinh thể (cườm khô), và cườm nước (glaucoma). Theo Tổ chức Sức khỏe thế giới (WHO), người mù vì cườm khô đã chiếm hơn 40% số người già bị mù. Chín phần mười các trường hợp cườm khô là do tuổi già, cơ thể suy yếu; số còn lại là do các bệnh tiểu đường, chấn thương, suy dinh dưỡng…

Khi thấy mắt bị mờ dần, có đốm đen bay bay rồi cố định lại một chỗ, không đau nhức, không đỏ, tưởng là kính không đúng độ mà đo kính nào cũng không vừa thì phải nghĩ đến cườm khô. Hiện vẫn chưa có thuốc nào chữa được cườm khô, chỉ có cách là phải mổ để thay thủy tinh thể đục bằng một thủy tinh thể nhân tạo hoặc đeo kính để điều tiết. Hiện nay có những kỹ thuật mới để mổ cườm khô, đặt thủy tinh thể nhân tạo rất tiện lợi. Sau mổ, bệnh nhân có thể sinh hoạt lại bình thường ngay.

Riêng cườm nước là một bệnh hết sức nguy hiểm vì dẫn đến mù lòa. Nếu được phát hiện sớm thì có thể tránh được mù. Bệnh cườm nước cấp tính gây nhức đầu dữ dội, có khi nhức nửa đầu kèm theo ói mửa, mắt đỏ, căng cứng, con ngươi nở lớn. Trường hợp này phải đến ngay bệnh viện có chuyên khoa mắt. Dạng cườm nước mạn tinh tiến triển âm thầm, chỉ thấy hơi đau mắt, xốn mắt, mỏi mắt và mờ dần. Nhiều người tưởng tại mình có tuổi nên mắt kém, không đo nhãn áp để chẩn đoán kịp thời.

Người lớn tuổi cũng thường nghe kém, lãng tai. Lãng tai một chút cũng hay, khỏi phải nghe những lời nói xấu mình! Cái gì khoái thì nghe không thì thôi. Từ 65 tuổi trở đi có hơn một phần ba số người bị lãng tai. Nghe kém sẽ làm cho việc truyền thông khó khăn hơn, có thể gây nguy hiểm trong giao thông, đi lại. Ngày nay có những dụng cụ trợ thính dễ sử dụng và rẻ. Ở các nước phát triển cứ ba người có tuổi thì một người mang máy điếc, nhờ đó họ có thể giao tiếp tốt hơn và tham gia vào các hoạt động xã hội, giúp họ cảm thấy sảng khoái, không bị coi là tàn phế nữa.

Ở ta, nhiều người không ưa máy điếc vì nó ồn ào lại làm cho ta nghe rõ những “sự thật đau lòng”. Một vở kịch kể chuyện hai vợ chồng già, ông nói gà bà nói vịt nhưng rất hạnh phúc bên nhau, đến khi các con hiếu thảo gởi về cho mỗi người một cái máy điếc thì bắt đầu cãi vã nhau suốt ngày. Cuối cùng cả hai phải liệng cái máy điếc vào sọt rác!

“Chúng ta không chăm sóc bản thân mình mà để cho cơ thể làm việc đến hao mòn, vì vậy nó dễ bị hư hỏng sớm. Khi chúng ta còn khỏe mạnh, còn sung sức, thì chúng ta bóc lột ngay chính bản thân mình, bóc lột các bộ phận trong cơ thể, bóc lột những khả năng của mình mà không hề cân nhắc, không hề nghĩ tới hậu quả. Ở lứa tuổi 50 tôi vẫn chưa chú ý lắm đến sức khỏe của mình…” Viện sĩ Misculine 90 tuổi viết như thế. Hiện nay mỗi sáng ông chạy bộ, tập thể dục đều đặn, chơi quần vợt, ăn uống điều độ. Ông nói “Tôi cảm thấy 30 năm trước đây tôi đã già yếu hơn nhiều so với bây giờ”!

Xin từ fb của anh Việt Hải Trần. 
Thank you.

'Văn Hoá Dưới Góc Nhìn Của Một Bác Sĩ Nhi khoa. 

(Theo phần 2 buổi phỏng vấn ngày 26 tháng 3, năm 2015 trên đài Saigon-Houston, Texas; tác giả trao đổi với Ý Linh của Chương Trình Văn Hoá Việt)

1) Xin Anh cho biết những yếu tố văn hóa là gì?

- Theo tôi nghĩ, văn hoá là một vấn đề rất khó định nghĩa. Ví dụ, năm 1980, Nguyễn Trãi (1380-1442) được UNESCO công nhận là "Người của Văn hoá" (Man of culture). Việt Nam vận động để người anh hùng dân tộc của chúng đa được tôn vinh như vậy. Mặc nhiên chúng ta coi văn hoá như là những gì tốt đẹp tinh tuý của đời sống chúng ta, và trong khuôn khổ của những thành tựu của văn minh loài người, chúng ta muốn được công nhận là có người Việt đã từng đóng góp vào cái thành tựu chung đó . Trong nghĩa đó, tôi  nghĩ ngôn ngữ của chúng ta là một yếu tố văn hoá quan trọng. Chúng ta xây dựng một ngôn ngữ qua hàng ngàn năm, giữ cho ngôn ngữ đó sống (không trở thành tử ngữ [dead language; extinct language]), làm nền tảng xây dựng một nên văn chương riêng biệt, với khả năng chuyên chở những âm thanh, cách nói và tình cảm đặc thù (biểu hiện trong giọng nói, trong ngữ pháp (grammar),  nói lái, chơi chữ, ca dao, lời ru con, âm nhạc cũ và mới). Bài "Tình ca" của Phạm Duy diễn tả một cách bóng bẩy, nhưng hơi bi đát, những thành tựu đó: "bốn ngàn năm ròng rã buồn trôi, khóc cười theo mệnh nước nổi trôi". Tác phẩm của Nguyễn Du, "Kim Vân Kiều" (Đoạn Trường Tân Thanh) từng được nhiều  người dịch ra nhiều thứ tiếng, chắc phải được nhiều người ngoại quốc ngưỡng mộ. Nhưng nhiều người ngoại quốc dịch cũng có nghĩa nguyên tác tiếng Việt vẫn còn những nét đẹp, những hương thơm riêng khó chuyên chở qua một ngôn ngữ khác (1). Và theo tôi, phần sau, vế sau của câu nói của  Phạm Quỳnh: "Chuyện Kiều còn, tiếng Việt còn, tiếng Việt còn, nước Việt còn". Sau này, chúng ta sẽ có hàng triệu người Mỹ gốc Việt, người Úc gốc Việt, ngay cả trăm ngàn người có mẹ là người Việt ở Đài Loan, Hàn quốc, Trung Quốc, số đông là con lai, làm sao định nghĩa thế nào là người Việt, nếu không phải là người nói tiếng Việt?

Theo Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc, là người dạy về văn hoá Việt Nam ở Úc và người viết rất nhiều về văn hoá Việt, thì “quan niệm được nhiều nhà nhân học và văn hóa học đồng ý và sử dụng nhiều nhất là quan niệm cho văn hóa, trước hết, là một hệ thống biểu trưng và ý nghĩa (system of symbols and meanings) mà một cộng đồng đã tạo ra, và đến lượt nó, góp phần tạo ra cộng đồng, trong đó, mọi người tồn tại không phải như những cá nhân riêng lẻ mà là những thành viên của cộng đồng”

Theo tôi nghĩ, riêng đối với những người lưu vong như chúng ta, ngôn ngữ, nghĩa là tiếng Việt là cái "hệ thống biểu tượng và ý nghĩa" quan trọng nhất mà chúng ta mang theo. Nếu chúng ta muốn để lại một dấu vết văn hoá nào đó trên thế hệ kế tiếp, thì tôi nghĩ món di sản hữu hiệu và thực tế nhất là tiếng Việt. Có thể lấy ví dụ về người Pháp: người Pháp ở Canada còn nói tiếng Pháp sau 300 năm, nhưng người Pháp ở Louisiana (Cajuns) đa số thì không, khó nói họ là người Pháp.  Một yếu tố văn hoá khác: ẩm thực ("Vietnamese cuisine") theo tôi thấy quan trọng cho việc quảng bá hình ảnh, như một loại thương hiệu dễ nhìn nhận ("branding") của Việt nam dưới con mắt nước ngoài, nhưng đối với người Việt thì tôi không nghĩ quan trọng bằng. Khuynh hướng hiện nay là chúng ta ăn uống theo những hiểu biết mới về sức khoẻ con người, và thế hệ mới sẽ ăn phở nhưng cũng ăn pizza, và nếu có tiền dư dả chắc muốn ăn sushi hơn là ăn cá kho. Một yếu tố văn hoá khác là lịch sử. Tuy nhiên hiện nay, các ý niệm về lịch sử đang rất tranh cãi. Trong nước thì vấn đề này taboo, trên thế giới thì học lịch sử dễ bị bóp méo thành công cụ cho chủ nghĩa quốc gia cực đoan (ví dụ lịch sử và chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; hay lịch sử biên giới Cambodia và Việt Nam), đi qua lãnh vực chính trị, rất tế nhị.

2)Có nên dạy trẻ em theo một nền văn hóa mà thôi? Thí dụ như là để mau chóng hội nhập vào xã hội Mỹ, chỉ nên hướng dẫn và khuyến khích con em theo nền văn hóa  Mỹ?

- Theo tôi nghĩ, chúng ta ở Mỹ, và con cái chúng ta là người Mỹ, tuy nghĩa từ " người Mỹ" không giống như “người Mỹ” 40-50 năm trước, và như nhiều người đã phân tích có kèm theo một dấu nối (hyphenated= of mixed origin or identity) mà nhiều người cho là rất quan trọng đối với căn cước - identity - của chúng ta. (Vietnamese-American, mà chúng ta gọi là "người Mỹ gốc Việt"). Cho nên ngôn ngữ đương nhiên là tiếng Anh (tiếng Mỹ). Nếu chúng không hội nhập được vào xã hội Mỹ, thì chúng sẽ bị ra rìa, và không thuộc về một xã hội nào khác. Tình trạng này giống như tình trạng một số đáng kể các thanh niên thiếu nữ gốc Trung Đông ở Pháp hay Anh, họ không muốn cư xử (hay muốn mà không thể vì điều kiện xã hội) như người bản xứ cho nên họ đi theo Nhà Nước Hồi giáo (IS) và trở thành tội phạm trong chính nước Anh hay nước Pháp đã từng cưu mang nuôi dưỡng họ. Tuy nhiên, về ngôn ngữ, thế giới này sẽ thuộc về những người có khả năng đa ngôn ngữ. Học tiếng Việt, nói tiếng Việt thì ít lắm cũng hiểu được thêm gần 100 triệu người trên thế giới, huống chi những người đó là người cùng huyết thống với mình và là nơi xuất phát của cha mẹ mình. Chỉ một vì dụ thôi, chủ tịch của Facebook gần đây trổ tài nói tiếng Hoa lưu loát làm hàng tỷ người Hoa càng ngưỡng mộ anh ta và công ty facebook. Chính người quyền lục như Bill Gates cũng tiếc rằng mình chỉ nói được tiếng Anh và mơ nói được tiếng Pháp.

Còn riêng về văn hoá, một người như TT Obama còn muốn về Kenya là quê hương của cha mình để tìm hiểu và viết sách (kiếm ra rất nhiều tiền) về di sản của người cha mà ông gặp chỉ vài lần trong đời. Sách tựa đề: "Giấc Mơ từ cha tôi: Một câu chuyện về chủng tộc và thừa kế" (Dreams From My Father: A Story Of  Race And Inheritance). Một người con mà cha vắng bóng còn coi trọng di sản của cha như thế. Chúng ta ở bên cạnh con cái, đất nước chúng ta có lịch sử hàng ngàn năm và có một nền văn hoá từng được người Pháp cũng như hiện nay người Mỹ hâm mộ, tìm tòi khảo cứu. Nếu chúng ta có khả năng , tại sao lại không giúp con cái chúng ta một số hành trang lúc chúng còn nhỏ, rồi sau này, lúc trưởng thành, chúng sẽ có một chút gì về nguồn gốc mình,  "còn một chút gì, để nhớ để thương".

Ngoài ra, chuyện học hay nói thêm một thứ tiếng có làm giảm khả năng dùng tiếng Anh không đã được giải quyết lâu rồi. Người song ngữ có chỉ số thông minh (IQ) cao hơn. Khả năng bị lẫn (dementia) lúc già, nếu xảy ra , thì bị lẫn chậm hơn người nói một thứ tiếng. Nếu đứa trẻ dùng tiếng Việt ở nhà kém tiếng Anh, không phải là vì nó biết hai thứ tiếng, mà  nó kém vì môi trường trong gia đình nó không phong phú cho việc học hỏi bằng môi trường gia đình của một gia đình Mỹ trung lưu dùng tiếng Anh (cha mẹ dùng ngữ vựng phong phú hơn, nói chuyện với nó nhiều hơn, tạo cho nó nhiều cơ hội học hỏi hơn.) Nếu cha mẹ Việt không nói được tiếng Anh, mà lại dùng tiếng Anh giới hạn của mình để truyền đạt kiến thức cho một đức trẻ sinh ra  bên Mỹ thì sẽ không thành công lắm.  Chi bằng giúp cho nó nói được tiếng Việt và dùng tiếng Việt -là sở trường của mình- để dạy dỗ nó?

3)Theo quan điểm của Anh, nền văn hóa Mỹ có những ưu thế nào hơn nền văn hóa Việt?

- Về phần "văn hoá" của chúng ta mang theo, nếu xem văn hoá là những đặc thù trong cách nhìn cuộc đời, vể cách cư xử giữa con người với con người, hay cách suy nghĩ về quan niệm giáo dục mà trước biến cố 1975, ở Miền Nam mà chúng ta cho là mẫu mực, đáng trân trọng, tôi cũng không thấy có vấn đề gì nếu chúng ta giữ lại những nét văn hoá ấy. Nên nhớ là hồi đó, dù là dưới chính phủ nào, nền giáo dục Miền Nam vẫn cố gắng theo các lý tưởng: dân tộc, nhân bản và khai phóng. Chúng ta chưa bao giờ dạy một cách hệ thống  con cháu chúng ta  thù ghét người ngoại quốc (xenophobia) hay người khác màu da (racism), hay khinh dễ người Thượng thiểu số trong nước. Những căn bản về trật tự xã hội Khổng giáo (như tam cương ngũ thường, nhân lễ nghĩa trí tín, nếu chúng ta đừng câu nệ chi tiết gắn liền với hoàn cảnh lịch sử), triết lý Phật giáo, Lão giáo đang được trí thức tây phương nghiên cứu với thiện cảm. Họ không thấy bị đe doạ như đối với một số tôn giáo hay truyền thống tư tưởng khác. Tôi không bàn đến ảnh hưởng Thiên chúa giáo có mặt tại Việt nam chừng 400 năm nay, vì tôn giáo này thuộc dòng chính của xã hội tây phương (Judeo-Christian tradition), nên khỏi cần bàn.  Cho nên trong văn hoá chúng ta hấp thụ từ nền giáo dục miền nam trước đây theo tôi thấy không có gì đi ngược lại hay thua kém nên văn hoá tây phương, hay nền văn hoá  chính dòng của Mỹ chẳng hạn.

Có những điểm mà tôi thấy có sự khác biệt và có nhiều người cho là những điểm Mỹ hơn chúng ta  như:

(1) Chúng ta thường không tính xa như người Mỹ, chuyện này cũng có thể giải thích bằng hoàn cảnh chiến tranh. Cuộc sống rất bất ổn, nay sống mai chết. Cho nên khác với chúng ta, người Mỹ, họ tính rất xa vì xã hội họ ổn định hơn. Người mẹ lúc mới có bầu em bé là họ đã lo tính để dành tiền cho nó đi học đại học, phải xin trường mẫu giáo nào, vv . Chúng ta liều  và có thể phú cho trời ("trời sinh voi sinh cỏ"), cho nên đẻ đứa nào, cha mẹ nuôi đứa đó. Trong lúc ở Mỹ, có lúc người mẹ đi phá thai vì họ nghĩ là lúc đó họ chưa có khả năng chu toàn cho đứa nhỏ, hay lúc đó họ bận hoàn tất một công việc nào đó. Ngược lại, lúc em bé đã ra đời, thì họ lại xả thân hy sinh tới cùng để cứu sống nó. Hồi tôi đi thực tập nội trú, một bác sĩ người Nga dốc Do thái tâm sự là lúc mới qua Mỹ, bà ta phá thai vì công việc định cư còn lở dở, sau đó thì mà cứ tự hỏi không biết nếu giữ lại thì giờ này em bé lớn đến đâu rồi.

(2) Tính kỷ luật và tự giác:

Người Mỹ thường đứng sắp hàng chỉnh tề và đến cửa nhà hàng thì người trước vịn cửa cho người sau, nhất là cho phụ nữ và trẻ em. Ăn buffet, thường thì người ta kiên nhẫn đợi đến phiên mình và lấy vừa đủ ăn thôi. Khía cạnh này tôi nghĩ phần lớn do giáo dục thôi, không hẳn là vì mình kém văn hoá người ta. Ví dụ, đứa trẻ Việt nam ngày trước lúc ngồi bàn cũng được dạy dỗ  đợi ông bà cha mẹ anh chị cầm đũa mới được ăn. Tuy nhiên, từ lịch sự, nhường nhịn với người trong nhà đến lịch sự với người chung quanh đòi hỏi một sự tin tưởng nhiều hơn vào trật tự xã hội, và vào khả năng pháp trị của xã hội, cộng đồng đó. Ví dụ, ở Mỹ gần đây, có những cuộc bạo động ở Oakland, lúc luật pháp không được áp dụng, dân chúng cũng vào đập phá các cửa hàng người Á châu như thường.

(3)Trách nhiệm với cộng đồng: Ở Mỹ, nếu mình gặp tai nạn, có khả năng nhiều người sẽ dừng xe lại giúp đở. Ví dụ, ở Vn lúc nguy đến tính mạng, ai đến cứu mình thì chắc mình phải nhớ ơn và người đó sẽ nhớ mình mắc nợ họ suốt đời. Đối với người Mỹ , thì cảm ơn là xong, hoặc là họ sẽ cho đấy là công việc hay bổn phận của họ. Nếu mình là người ban ơn, mình sẽ cho là người Mỹ vô ơn bạc nghĩa.

Người Mỹ lý tưởng và tin vào lợi ích chung của xã hội. Ví dụ, họ đóng góp cho các cơ quan từ thiện, cụ thể nhất là họ đùm bọc cho hàng triệu người trong chúng ta lúc mới định cư (và cho tới giờ này tôi chưa bao giờ đọc hay nghe người Mỹ nào nói là mình mang ơn họ). Những người như Bill Gates , Warren Buffett đóng góp phần lớn tài sản của họ cho các công việc từ thiện, không những cho nước Mỹ, mà cho toàn bộ thế giới, kể cả Việt Nam. Tôi nghĩ là một phần lớn lý do là do truyền thống nhân bản (có thể phát xuất từ tôn giáo) tôn trọng giá trị mỗi con người. Về vấn đề này, cũng nhắc đây một tánh đa nghi của người Việt. Gặp người tốt bụng, chúng ta hay nghi ngờ dè bỉu: chắc là muốn giảm thuế hay có âm mưu gì đây, hay lấy tiếng để ‘bỏ con tép bắt con tôm’ gì đây!i.

(4) Tôi mới đọc đâu đó nhận xét rằng xã hội Mỹ quý trọng hai điều: tự do và mạng sống con người. Tôi nghĩ điều đó đúng và có thể chúng ta nên học thêm về hai mặt đó. Mặc dù, nói về tự do  chúng ta vẫn nói "bá nhân bá tánh", hay về tình người với nhau, "tứ hải giai huynh đệ" hay " thương người như thể thương thân","dù xây chín đợt phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người", trên thực hành  có lẽ  chúng ta cũng cần suy nghĩ thêm về những điều ông bà chúng ta từng dạy. 

4) Theo Anh, nền văn hóa Việt có những ưu điểm nào nên chú trọng đến?

-Trong phim ảnh về người gốc châu Á, người ta thường nhắc đến sự khác biệt của giới trẻ lúc chúng sống ngoài xã hội Mỹ và lúc chúng sống trong gia đình: ăn phở, nước mắm, chả giò, nói tiếng Việt, trong nhà TV chiếu video ‘Paris by Night’, cha mẹ không cho kết bạn tình  với người khác giống, vv. Ra khỏi nhà thì nói tiếng Anh, ăn fast food, giao thiệp với đủ màu da, nhưng dấu cha mẹ. Thường sự song hành của hai nếp sống đó  được trình bày  dưới khía cạnh đối nghịch , tiêu cực vì thường đó là cái nhìn của người từ luồng chính "mainstream" nhìn vào (dù là tác giả là người thuộc dòng máu Châu Á nhưng vẫn là cái nhìn của mainstream), để khai thác những điểm có vẻ thú vị của nếp sống chúng ta.

Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn vào cuộc sống gia đình chúng ta với con mắt ít thành kiến hơn, chúng ta có thể nhìn thấy những nét, dù là "sắc tộc" trong văn hoá Mỹ, nhưng có những giá trị riêng của nó. Ví dụ cha mẹ kiểm soát con cái đi đâu, đi với ai, chuyện này lắm khi cũng là một thái độ hợp lý.  Phụ huynh Việt mới đến trong cộng đồng Mỹ , làm sao thấu hiểu được những  nơi nào là an toàn, nơi nào không, các láng giềng tâm lý như thế nào, thành kiến họ đối với người Việt ra sao. Nếu chỉ thả đứa trẻ muốn đến nhà ai cũng được, cặp (dating) với ai cũng được, chuyện rắc rối có thể xảy ra (ví dụ lái xe gây tai nạn cho bạn cùng lớp, hay cặp kè với bạn dùng drugs, hay tự ái đánh lộn lúc bạn bè khiêu khích mình, bully mình lúc mình mới đến). Nếu xảy ra chuyện gì thì người cha mẹ đó có đủ khả năng đối phó hay không? Nhất là ở Mỹ, có thể bị thưa kiện, "con dại cái mang" còn nặng nề hơn ở Việt nam nữa. Một đề tài khác mà phụ huynh gốc Á hay bị chỉ trích là chúng ta quá  gắt gao trong việc học của con cái, ép buộc chúng học những ngành dễ tìm việc, ăn chắc mặt bền như y khoa, kỹ sư, luật khoa mà không đi theo đúng sở nguyện của thanh thiếu niên.

Những phụ huynh Mỹ từ trước tới nay vẫn có khuynh hướng 'cưng" con rất mực, luôn luôn khen con và ca tụng nó như là một nhân vật độc đáo. Dù có muốn gì đi nữa, dù đi ngược lại sự tính toán hay sự lựa chọn của cha mẹ mình (như học trường đại học đắt tiền thật xa, trong lúc cha mẹ không có tiền), người cha mẹ luôn luốn đứng thụt lùi về sau, và "ủng hộ con " dù con muốn cái gì. Điều người ta sợ nhất là làm lòng "tự trọng" (self esteem)  đứa bé bị thương tổn. Gần đây, sau khi các học sinh trong khối Đông Á hơn hẳn các sinh viên Mỹ trong các kỳ thi quốc tế, một số cha mẹ ở Mỹ có vẻ đã giật mình trong giâc mơ tôn sùng con cái của mình. và họ đi tìm hiểu, học hỏi xem các xứ gọi là trong vòng ảnh hưởng Khổng giáo (Trung hoa, Nhật, Triều tiên) dạy con cái ra sao.

Người ta tranh cãi nhiều về cách các bà mẹ châu Á “dữ như cọp”,"Tiger Mom", dạy con và có vẻ như con họ rất thành công. Amy Chua, tác giả cuốn sách bestseller "Nhạc xuất quân của một bà Mẹ Cọp" (The Battle Hymn of the Tiger Mother), là một giáo sư đại học gốc Hoa ở Mỹ, lúc cha mẹ bà mới đến Mỹ rất nghèo, phấn đấu lắm mới thành công. Chồng cũng là giáo sư, gốc Do thái. Chán nản vì thấy cô con gái teenager sinh ra trong cảnh trù phú của nước  Mỹ luôn luôn chống đối nổi loạn, bà mới viết cuốn về cách giáo dục theo lối nghiêm khắc và cũng chia sẻ như môt phương pháp trị liệu gia đình (family therapy) đối với chồng và con. Phụ huynh Mỹ cũng bắt đầu tìm hiều xem chi tiền cho con  bốn năm ở một đại học đắt tiền, để kiếm một mảnh bằng khó kiếm việc làm, không biết có đáng hay không.

5) Sống ở Mỹ, giáo dục con em theo văn hóa Mỹ chắc là thuận lợi và dễ dàng hơn đối với phụ huynh. Nhất là với chiều hướng toàn cầu hóa, văn hóa Mỹ có nhiều cơ hội lan tràn kháp thế giới, nhiều nhóm di dân mong được đặt chân đến Mỹ. Như vậy, để cho con em theo văn hóa Mỹ có phải là điều nên làm không?

- Tôi sống ở Mỹ được 33 năm, bằng thời gian tôi ở Việt Nam. Nhiều khi nghĩ lại, tôi giật mình ngộ ra rằng tôi chưa biết gì nhiều về nước Mỹ nói chung cũng như về văn hoá Mỹ. Tôi chỉ thấy một góc nhỏ của cuộc sống trong xứ Hiệp Chủng Quốc gồm 50 tiểu bang này. Giới trẻ Mỹ mà tôi gặp là giới trung lưu, Mỹ trắng hay Á châu , bạn của con tôi, và cũng không nhiều, ở Virginia, là một tiểu bang tương đối bảo thủ, nhưng cũng là thuộc về khu đô thị chung quanh thủ đô Washington. Vùng này  nhiều dân Á châu cũng như nhiều sắc dân khác, nên có vẻ thoải mái, bao dung, ít dấu vết kỳ thị mà cũng ít hoạt động băng đảng như một số nơi ở Los Angeles. Cho nên, nếp sống các con tôi cũng như các giới trẻ bịnh nhân của tôi không có sư tương phản, hay đối nghịch đáng kể giữa văn hoá Việt và văn hoá Mỹ. Bạn của con tôi đến nhà chúng tôi và được ăn pizza, macaroni, mì gói, đến Tết được ăn bánh tét và Giáng sinh được ăn buche de Noel. Nay chúng trưởng thành có vợ, chúng vẫn lui tới và hồi tưởng đến bà ngoại các con tôi, mặc dù bà cụ chỉ cười, dọn cho các cháu ăn, chứ không nói tiếng Anh.

Như vậy để nói rằng gọi tên văn hoá này hay văn hoá khác có khi không có ích lắm. Tình thân dễ nẩy nở giữa con người với con người, nhất là trẻ con. Với các phương tiện di chuyển và thông tin nghe và xem  hiện nay, cọng với các truyền thông trên internet, giới trẻ trung lưu Washington  DC, Seoul, Thượng hải hay Sài gòn không khác nhiều như 20 năm trước. Hơn nữa, đối với chúng ta, hiện tại là ở đây, chúng ta không phải chọn lựa nữa. Vì cái “ao nhà” của chúng ta không tốt lắm nên chúng ta đã ra biển tắm rồi. Một lý do khác làm cho công việc người phụ huynh ở Mỹ có thể khó khăn hơn trước đây ở Việt Nam. Xã hội Mỹ năng động, nói nhiều, giao tiếp nhiều hơn và người giao tiếp giỏi có vẻ như thắng thế. Văn hoá truyền thống Á châu thích người trầm tĩnh, nhún nhường  hơn, và chúng ta cần để ý đến điều này lúc nhìn con cái sống lên trong xã hội mới. Kiềm chế theo xưa có thể bất lợi, nhưng buông thả cũng không được. Người Mỹ có chữ "benign neglect" (vừa lơ là vừa cảnh giác) tôi nghĩ thích hợp trong trường hợp này.  Nếu cần thì cũng xin nhắc một câu nói của các cụ ngày xưa: "chọn bạn mà chơi".

6) Nếu phụ huynh muốn con em mình theo văn hóa Việt thì nên theo ở những phương diện nào? Tại sao?

-Những lãnh vực như giáo dục tôn giáo,  cội nguồn dân tộc Việt, triết lý sống (“minh triết”) của ông bà chúng ta, hay "Việt tính", những cái hay của tiếng Việt mà chúng ta đang dùng trong gia đình, là những điều các học giả đã bàn cãi nhiều. Những điểm đó có thể là những đề tài đối thoại để  không những bổ túc cho giáo dục của một con người toàn vẹn, mà còn thắt chặt mối thân tình giữa các thế hệ với nhau. Chúng  giúp cho con cháu mình có một tầm nhìn rộng hơn, so sánh các văn hoá, các triết lý sống, và nếu muốn, một cuộc sống tâm linh (spiritual) phong phú hơn. Tôi thấy một số nơi đông người Việt có những nhóm như lớp tiếng Việt, hướng đạo, thanh niên Công giáo, Phật giáo, cũng là những nơi tạo điều kiện cho các em sinh hoạt và chia sẻ tình bạn với những người có bối cảnh văn hoá, background giống mình. Người lớn có thể dễ nhận ra các em từng tham dự các nhóm này do cách ăn nói mẫu mực, hiểu biết về văn hoá ứng xử của người Việt thế hệ trước mình.

7) Làm sao dung hòa hay cân bằng ảnh hưởng của hai nền văn hóa trong việc hướng dẫn con em?

-Như đã nói, tôi không thấy sự đối lập giữa hai nền văn hoá. Chỉ có điều, xã hội Mỹ là một xã hội đa nguyên, đa dạng và tự do. Do đó, trường học chỉ dạy lý luận và ứng xử phù hợp theo quy ước xã hội. Theo tôi hiểu thì họ không dạy về tôn giáo, tín ngưỡng, giáo điều, hay ngay cả  lòng yêu nước  Mỹ. Có trường đại học California nhiều sinh viên còn đòi cấm treo cờ Mỹ vì sợ làm sinh viên ngoại quốc phật lòng. Các trường học công còn không được trưng bày 10 điều răn của Thiên Chúa Giáo.

Phần còn lại của một giáo dục toàn diện thuộc về gia đình, cha mẹ của các em. mà phần này, chúng ta chỉ có thể dạy hay nêu gương cho chúng về những gì chúng ta tin tưởng và chúng ta biết tường tận. Tôi nghĩ ngôn ngữ chúng ta biết tường tận và yêu mến  nhất là tiếng Việt và văn hoá chúng ta thiết tha nhất là văn hoá Việt, vậy thì tại sao chúng ta không truyền đạt cho con cái chúng ta những điều đó, ngoài những điều khác mà chúng ta muốn truyền đạt được.

 Lời kết

Tóm lại, dù muốn dù không, con cái chúng ta là công dân của xã hội Mỹ. Chúng không thể và cũng không nên sống ngoài lề xã hội đó vì không có lựa chọn nào khác.

Ngược lại, chúng ta là những con người của hai thế giới, hai nền văn minh, một bên là miền nam Việt nam của thời chiến tranh đã 40 năm qua, và một bên là thế giới phát triển của nước Mỹ, đang là giấc mơ của hàng triệu người trên thế giới. Dù sao, chúng ta cũng phải giáo dục con cái chúng ta, không phải để chúng trở thành những "clones" ("nhân bản") của chúng ta ngày trước, mà để chúng trở thành những thành viên  của xã hội tân tiến bậc nhất thế giới ngày nay. Theo tôi nghĩ, để thực hiện vai trò kẻ dẫn đường có trách nhiệm đó, chúng ta phải cố gắng tìm mọi cách để học hỏi, từ tiếng Anh  đến kiến thức khoa học hiện đại, về xã hội toàn cầu hoá này. Đó là phần kiến thức của quá trình "tu thân" kéo dài suốt đời đối với con người của thế giới ngày nay. Phần còn lại là các giá trị về tinh thần, đạo đức, tôn giáo mà chúng ta ai cũng không ít thì nhiều được hấp thụ từ nếp sống trong văn hoá nước nhà loạn ly qua bao nhiêu năm trước khi tự ý rời bỏ đất nước. Và sau đó, hy vọng với không ít thì nhiều 'minh triết rút tỉa từ văn hoá Việt và vốn liếng kiến thức càng ngày càng bổ túc, chúng ta có thể sẳn sàng hướng dẫn sự giáo dục của những người trẻ trong thế giới càng ngày càng phức tạp hiện nay.

 

Chú thích về truyện Kiều

Theo Alain Guillemin, truyện Kiều đã được dịch sang tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Ả Rập (từ bản dịch tiếng Pháp), tiếng Bulgari, tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Hy Lạp, tiếng Hungary, tiếng Ba Lan, tiếng Rumani, tiếng Nga, tiếng Slovakia và tiếng Thuỵ Điển.

(1) Có các bản dịch Anh ngữ sau đây:

1) Lê Xuân Thuỷ (khoảng 1960's), Kim  Van Kieu

2) Huỳnh Sanh Thông: The Tale of Kiều (1983)

3) Arno Abbey, căn cứ trên bản dịch tiếng Pháp của Nguyễn Khắc Viện

4) Michael Counsell, Kiều, Nhà xuất Bản Thế Giới (Hà Nội), 1994

5) Vladislav Zhukov , The Kim Van Kieu of Nguyen Du (1765-1820), 2004

6) Timothy Allen (2008), một số đoạn đăng trong các tạp chí Cosmopolis và Transplants.

(theo wikipedia)

(2) Tiếng Pháp:

1) Abel des Michels (1884). Người dịch thật sự có thể là nhà nho Trần Nguyên Hành. Ông Hành đã tốt nghiệp cử nhân luật tại Paris và là trợ giảng cho giáo sư tiếng Việt tại Trung tâm ngôn ngữ đông phương từ năm 1879 đến năm 1882

2) Thu Giang (Léon Massé), 1925

3) René Crayssac (1883-1940); 1926

5) Marcel Robbe ; 1943

6)  Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936); 1942

7) Xuân Phuc [Paul Schneider (1912-1998) ] 1961

Xuân Phuc và Xuan Viêt, Kim Vân Kieu, Gamillard/UNESCO; 2003

8) Nguyễn Khắc Viện ; 1965

9)  Lê Cao Phán, xuất bản tại Hà Nội ; 1994

10) Lưu Hoài, (thơ tự do) xuất bản năm 1999 cũng tại Hà Nội

(Theo Alain Guillemin.

(http://www.lesamisduvietnam.fr/forum/viewtopic.php?p=968&sid=2971389d2ed62ce8787de5000796389)

http://nguyendu.vn/nd.nsf/tin-hoat-dong-chi-tiet/cac_ban_dich_truyen_kieu_sang_tieng_phap.html)

Traductions françaises du Kim Vân Kiều

1. Abel des Michels, Kim Vân Kiêu (Tân Truyên), Paris, Leroux, texte en Quôc Ngu, traduction française et notes, 1884, 3 volumes, 295, 299 et 165 p.

2 . Thu Giang (pseudonyme de Léon Massé) Kim Ven Kièou, Poème populaire annamite, Adapté en Français, Paris, 1915, Augustin Challamel Editeur, 139 p. (Réédité en 1926, Kim Ven Kièou, traduit de l’annamite par L. Massé), Paris, Editi

3. René Crayssac, Kim Vân Kiéou, Le célèbre poème annamite de Nguyen Du traduit en vers français par René Crayssac, 1926, Hanoï, Imprimeur –Editeur Le Van Tan, 364 p. (Reprint, Saïgon, Bo Van-Hoa Giao-duc, 1968).

4 . Nguyên Van Vinh, traduction du Kim Vân Kiêu, Hanoï, 1942-1943, 2 volumes, Editions Alexandre de Rhodes, 778 p. Avec hors-textes et culs de lampe de Manh Quynh.

5 . M.R (Capitaine de vaisseau Marcel Robbe), Kim Vân Kiêu, 1943, Hanoï, Editions Alexandre de Rhodes, 203 p.

6. Xuân Phuc (pseudonyme de Paul Schneider) et Xuân Viêt, Kim Vân Kiêu, traduction française, Paris, Gallimard, 1961, Colllection UNESCO d’œuvres représentatives. Connaissance de l’Orient, série vietnamienne.

7 . Nguyên Khac Viên, traduction française du Kiêu, 1965, Hanoï, Editions en Langues Etrangères, 192 p. (1979, Hanoï, Editions en Langues Etrangères, version bilingue)

8 . Paul Schneider, Nouvelle édition critique de Kim Vân Kiêu, Sèvres, 1981, Editions Diêu Phap.

9 . Xuân Phuc, Kim Vân Kiêu, Roman-poème. Texte nôm, avec transcription, traduction, notes, glossaire et index des variantes, Bruxelles, Editons Thanh- Long, 1986, 386 p et CIII p de texte en Chu nôm.

10 . Lê Cao Phan, Truyên Kiêu, Histoire de Kieu,1994, Hanoï, Editions des sciences sociales, 298. Publiée avec l’aide financière de l’UNESCO (Collection UNESCO d’œuvres représentatives en vietnamien°

11. Luu Hoai, Histoire de Thuy Kiêu, 1999, traduction en vers libres, Nhà Xuât Ban Van Hoc, 424p.

Bác sĩ Hồ Văn Hiền

(Edited for Lang Hue; 4/29/2015)

Share'

Bài Khác