Quốc Ngữ và Nỗ Lực ‘Thoát Hán’ của Các Vua Nhà Nguyễn.

Nguyễn Quang Duy

Vua Thành Thái

Tìm hiểu lịch sử là công việc vô cùng thiết yếu vì có hiểu người xưa, có hiểu được lịch sử mới hiểu được vận mệnh nước nhà mà khôi phục lại. Trên Diễn đàn BBC nhà báo Nguyễn Giang đưa ra một cách nhìn khá mới lạ để ghi công và đánh giá những nhân vật lịch sử đã đóng góp cho việc truyền bá chữ Quốc ngữ. “Các vị truyền giáo có công tạo ra bộ mẫu chữ, nhưng việc này không có gì quá độc đáo hay quá khó khăn và giả sử nếu không có họ thì việc đó cũng có thể làm được sau này.”

Ý kiến cũng nói rằng Trung Hoa, Thái Lan, Ấn Độ, Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều quốc gia khác đều đã có những văn tự bằng tiếng La Tinh nhưng chưa bao giờ trở thành chữ Quốc ngữ của họ.

Cũng theo nhà báo Nguyễn Giang, Đông Kinh Nghĩa Thục chỉ xóa hàng rào cản tâm lý quá lạc hậu để giới sỹ phu yên tâm dùng chữ Quốc ngữ.

Và rằng chính nỗ lực tiên phong quảng bá Quốc ngữ là của trí thức miền Nam và nhờ chính sách tiến bộ, khoa học của chính quyền Pháp tại Đông Dương tạo đà cho chữ Quốc ngữ lan tỏa.

Nhưng tôi nghĩ cũng lạ tại sao ba nước Việt, Miên và Lào có chung hoàn cảnh, đều là thuộc địa của Pháp mà Miên và Lào lại không sử dụng La Tinh làm chữ Quốc ngữ.

Ở đây cần xem công lao các vị vua cuối cùng của triều Nguyễn, dù họ không thực sự nắm quyền thời Pháp thuộc.

Sắc lệnh của Vua Thành Thái

Theo sử gia Liam Kelley (2016) vào đầu thế kỷ XX cả người Pháp lẫn những nhà cách mạng đều không đủ quyền lực để chữ Quốc Ngữ có thể lan sâu rộng xuống đến tận cấp độ làng quê.

Qua nghiên cứu những nguồn tài liệu trong giai đoạn này, sử gia Liam kết luận chính nhà Nguyễn mới đi đầu trong công cuộc cải cách giáo dục.

Trong bài “Emperor Thành Thái’s Educational Revolution”, sử gia Liam Kelley (2016) đã công bố sắc lệnh của vua Thành Thái được lưu trữ trong sách Đại Nam Hội Điển Sử Lệ Tục Biên.

Bài viết được Nguyễn Hồng Phúc lược dịch có đoạn như sau:

“Hoàng đế Thành Thái đã tuyên bố trong một sắc lệnh rằng vào năm trị vì thứ 18 của ông (năm 1906), cha mẹ có thể quyết định việc cho con theo học một trường ấu học Hán văn hoặc một chương trình giảng dạy Nam âm (Quốc ngữ).

Với những người học theo chương trình Hán văn, sẽ có một cuốn sách giáo khoa được soạn ra nhằm giới thiệu những từ chữ Hán theo cấp độ khó dần. Nó cũng bao gồm một danh mục các Hán tự kèm theo phiên âm và định nghĩa bằng quốc ngữ được dùng trong tài liệu.

…Trong khi, một cuốn sách giáo khoa bằng quốc ngữ khác sẽ được soạn ra để dạy những người theo chương trình học ‘Nam âm’ nhằm giới thiệu cho họ những thông tin cơ bản về xứ Đông Dương, thiết chế cai trị của nó, những phong tục tập quán…

Thêm vào đó, cũng có thêm một cuốn sách nữa được dịch từ Hán văn sang Nam âm nhằm cung cấp những loại thông tin mà học viên đang luyện thi khoa cử cần biết. Bản dịch này được soạn ra cho những người không muốn thi khoa cử, nhưng nó vẫn được đưa vào chương trình để cho họ biết thêm về những gì mà những người đang luyện thi khoa cử phải học…”

Sắc lệnh này vô cùng quan trọng vì khi nhà vua ra lệnh sử dụng chữ Quốc ngữ là nhà vua đã công khai ý định muốn thấy tầng lớp quan lại và sỹ phu phải thoát khỏi ảnh hưởng Trung Hoa trong giáo dục, văn hóa, và nhất là tư tưởng.

 Vừa thoát Trung vừa chống Pháp

Xin nhắc lại về cuộc đời vị vua trẻ tuổi.

Vua Thành Thái lên ngôi năm 1889, đến năm 1907 bị Pháp ép thoái vị. Ngài bị quản thúc ở Vũng Tàu rồi đến năm 1916 bị đày sang đảo Réunion.

Vua là người cầu tiến, học tiếng Pháp, có hiểu biết khá toàn diện, cắt tóc ngắn, mặc âu phục, phong cách của người theo tân học.

Nhà Vua thường xuyên tiếp xúc với sỹ phu và dân chúng, đồng thời trọng dụng nhiều nhân tài, thanh liêm, đức độ với hy vọng khôi phục và canh tân đất nước.

Sắc lệnh cho dạy quốc ngữ chính là văn bản ủng hộ Phong Trào Duy Tân (1906) và Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) thúc đẩy việc theo tân học và dùng chữ quốc ngữ.

Cắt tóc ngắn trở thành một dấu hiệu của người theo tân học.

Nhiều thanh niên lúc ấy sắm cho mình một cái kéo, đi tuyên truyền, vận động cắt tóc và vận động canh tân.

Đến khi Vua bị người Pháp ép thoái vị năm 1907 hình ảnh một vị vua yêu nước, chống Pháp, cắt tóc ngắn nhanh chóng lan tỏa xuống đến tầng lớp nông dân.

Tháng 3 năm 1908, bắt đầu từ tỉnh Quảng Nam, nông dân đầu cắt tóc ngắn lũ lượt kéo đến các phủ huyện đòi giảm sưu giảm thuế.

Tất cả đều hớt tóc ngắn đi thành đoàn, phong trào mở rộng vào Nam đến Bình Định, Phú Yên và ra Bắc đến Nghệ An, Hà Tĩnh.

Pháp và triều Nguyễn gọi cuộc biến động này là Giặc cắt tóc, ở Bình Định gọi là Giặc đồng bào, sau nầy được đổi lại là cuộc Dân biến Trung kỳ.

Đây là cuộc đấu tranh bất bạo động đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và đoàn biểu tình lấy biểu tượng là Vua Thành Thái một vị vua yêu nước, theo tân học và chống Pháp.

Như vậy ngay từ đầu thế kỷ thứ 20, người Việt đã công khai thực hành phương pháp đấu tranh bất bạo động với biểu tượng vua Thành Thái, có tổ chức, có chiến thuật, có mục tiêu và có chiến lược một cách rất rõ ràng.

Cuộc đấu tranh bất bạo động bị Pháp đàn áp dã man. Nhiều người tổ chức và tham dự bị bắt, phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục bị dập tắt.

 Các vị Vua tiếp tục cải cách

Năm 1907 vua Duy Tân tiếp nối việc cải cách giáo dục bằng cách cho thành lập Bộ Học nhằm cai quản việc học hành và thi cử.

Thượng thư Bộ Học Cao Xuân Dục là một nhà giáo dục cổ vũ thực học, thực tài, bỏ đi kiểu học từ chương, xa rời thực tế và chủ trương phát triển nền giáo dục “không học vì bằng cấp” mà phải học lấy thực tài để ra giúp dân, giúp nước.

Đáng tiếc ông lại hết sức bài bác chữ Quốc ngữ, nhưng không phải vì thế mà chữ Quốc ngữ bị đưa ra khỏi nền giáo dục.

Theo Trần Gia Phụng từ năm 1909, chương trình thi Hương bắt buộc thí sinh phải làm các đề thi luận văn bằng cả chữ Hán lẫn chữ Quốc ngữ.

Ngày 26 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ (tức ngày 28/12/1918) vua Khải Định ra đạo dụ chính thức bãi bỏ khoa cử kiểu Hán học.

Năm 1919 là năm cuối mở khoa thi Hương ở Huế, từ đó chữ Quốc ngữ thành chữ viết chính thức của người Việt Nam.

Vai trò của các ông giáo trường làng

Bên cạnh các trường công do triều đình và người Pháp lập ra là một hệ thống trường tư do các thầy đồ sau chuyển thành thầy giáo làng giảng dạy.

Mỗi làng có khi lên đến vài ba trường, hoặc dạy ở nhà thầy, hoặc ở nhà người giàu có nuôi thầy cho con ăn học và cho con các nhà lân cận trong làng theo học.

Thầy đồ đa số là những người có học, có người đỗ tú tài, có người là quan hồi hưu mở lớp dạy học.

Thầy đồ hoàn toàn tự do không chịu sự giám sát của triều đình.

Mặc dầu được tự do mở lớp giảng dạy giới thầy đồ vẫn giữ lòng trung với các vua nhà Nguyễn và với sách Thánh hiền.

Các thầy đồ quyết liệt chống lại các chính sách giáo dục của nhà cầm quyền Pháp với quan niệm chữ Quốc ngữ là sản phẩm của ngoại bang và là công cụ của các nhà truyền giáo.

Với họ, chữ Hán giáo dục về luân lí, về lịch sử, là chữ Thánh hiền còn Quốc ngữ chỉ để đọc báo, đọc Kinh Thánh, những sản phẩm của quân xâm lược, biết đọc chẳng ích lợi gì.

Nhưng khi sắc lệnh cho dạy Quốc ngữ của vua Thành Thái được ban ra thì chính các thầy đồ đã thay đổi đã tự học chữ Quốc ngữ để truyền dạy lại cho học sinh.

Ba lớp Đồng ấu học trước khi học sinh vào tiểu học đều do các thầy giáo trường làng dạy hoàn toàn bằng chữ Quốc ngữ.

Nhờ thế chữ Quốc ngữ trở thành phổ thông đại chúng.

Những bộ sách giáo khoa như Sử ký địa dư giáo khoa thư, Luân lý giáo khoa thư, Quốc văn giáo khoa thư, được học giả Trần Trọng Kim và các cộng sự biên soạn để dạy lớp ấu học trường làng.

Bộ sách giáo khoa ‘Việt Nam Sử lược’ được học giả Trần Trọng Kim soạn để dạy các lớp cao hơn và đã hoàn toàn chỉ cho những người đã biết Quốc ngữ.

Lên lớp nhì và lớp nhất ở trường chính phủ, mỗi tuần chỉ dạy chữ Quốc ngữ một giờ rưỡi và bậc trung học chỉ dạy ba giờ.

Thời gian còn lại học sinh được dạy bằng tiếng Pháp và hầu hết do người Pháp dạy.

Từ đó ta thấy được căn bản tiếng Việt, sử địa, luân lý, văn hóa về Việt Nam của học sinh hầu như đều thu nhận được từ các thầy giáo trường làng.

 Vua Bảo Đại là người Tây Học

Tốt nghiệp trường Khoa học Chính trị Paris về nước, vua Bảo Đại bắt tay ngay vào việc cải cách đất nước, mong từng bước khôi phục lại chủ quyền quốc gia.

Ngày 10/12 năm 1932, vua Bảo Đại cho công bố đạo dụ nước ta theo chế độ Quân chủ Lập hiến, nhà vua sẽ trực tiếp điều khiển nội các và cho cải cách hành chính, giáo dục và tư pháp.

Một nội các mới đã được thành lập gồm những người trẻ theo tân học như Phạm Quỳnh, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Đệ…

Bộ Học được đổi tên thành Bộ Giáo dục và giao cho Phạm Quỳnh từng là chủ nhiệm báo Nam Phong một người luôn tha thiết với chữ Quốc ngữ điều hành.

Các cuộc cải cách của vua Bảo Đại đều bị người Pháp cản trở, riêng cải cách về giáo dục nhờ Phạm Quỳnh được người Pháp tin nên ít bị cản trở.

Chữ Quốc ngữ được tăng giờ dạy ở các trường công.

Nhờ thế sau khi Nhật đảo chánh Pháp, trao trả độc lập cho Việt Nam, chỉ trong vòng 5 tháng chính phủ Trần Trọng Kim đã thực hiện thành công cuộc cải cách lấy chữ Quốc ngữ làm ngôn ngữ chính trong giáo dục.

Bộ trưởng Giáo dục Hoàng Xuân Hãn có công lao lớn khi soạn cả sách toán và kỹ thuật bằng tiếng Việt Quốc ngữ để dạy ngay trong niên học 1945-46 tại miền Bắc và miền Trung.

Từ 1948 đến 1955, chính phủ Quốc gia Việt Nam tiếp tục lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ giảng dạy đến hết bậc trung học.

Bắt đầu từ chuyển biến tư tưởng thời Thành Thái

Học tiếng Pháp, theo tân học thoát khỏi tư tưởng Trung Hoa nên vua Thành Thái đã hiểu rõ những khái niệm về tự do, dân chủ, quốc gia, dân tộc, quân chủ, cộng hòa… hiểu từ sách Pháp không phải từ sách Trung Hoa.

Thay đổi quan trọng nhất của nhà vua là về mặt tư tưởng, về ý thức đất nước không còn của nhà vua nữa mà là của quốc gia của dân tộc.

Quốc gia là một thực thể độc lập có chủ quyền thoát khỏi tư tưởng thuộc địa hay chư hầu Trung Hoa.

Khái niệm ‘quốc gia’ bắt đầu được sử dụng đối nghịch với ‘thuộc địa’, ‘chư hầu’.

Mặc dù không có quyền lực trong tay các vua triều Nguyễn đã thực hiện thành công cải cách từ giáo dục, văn hóa, đến chính trị đưa đất nước thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Hoa.

Bài học các vua triều Nguyễn đã thực hiện là nếu muốn cải cách giáo dục phải bắt đầu bằng thay đổi tư tưởng cho chính mình.

Vì thế, theo tôi, nhu cầu thiết yếu của đất nước ngày nay không phải là cải cách tủn mủn về phát âm, ký tự Quốc ngữ mà phải vừa thoát khỏi ý thức hệ cộng sản, vừa thoát Trung để khôi phục các nền tảng cơ bản cho Việt Nam.

Nguyễn Quang Duy

Melbourne, Úc Đại Lợi

4/9/2018

Tài Liệu Tham Khảo

  • Liam Kelley (2016), Cải Cách Giáo Dục Của Vua Thành Thái, Nguyễn Hồng Phúc lược dịch.
  • Nguyễn Giang, Những người giúp chữ Quốc ngữ ‘làm nên’, BBC World Service
  • Trần Gia Phụng, Lịch sử chữ Quốc Ngữ.

 

Văn Hóa Khoanh Tay: “Tôi là Người Việt Nam”

Lê Hữu

Chào khách đến nhà, tranh Phạm Hoan

Tôi nhớ, năm đầu đặt chân đến Hoa Kỳ, phần muốn học hỏi về ngôn ngữ và văn hóa xứ người, phần muốn tìm lại không khí “sân trường, lớp học” và nối lại giấc mơ “cùng theo lũ em học hành như xưa” như lời bài hát nào, tôi đã lò dò cắp sách đi học lại ở một trường đại học cộng đồng.

Khoanh Tay Và Khoanh Tay Đứng Nhìn

Lớp học tiếng Anh gồm sinh viên đủ các sắc dân, người bản xứ có, người nhập cư có, nhiều nhất vẫn là người gốc Á châu. Một hôm, vào cuối giờ học, bà giáo người Mỹ bước lại gần bàn tôi, cười cười và hỏi “Anh là người Việt Nam, phải không?”
“Đúng vậy,” tôi trả lời. “Sao bà biết?”
“Chỉ là kinh nghiệm riêng thôi.” Bà giáo cười, giải thích thêm, “Sau nhiều năm dạy học, tôi tìm được cách phân biệt các sắc dân người châu Á với nhau, như người Tàu, Nhật, Hàn, Thái, Việt, Lào…”
“Phân biệt cách nào, bà chỉ cho tôi với?” Tôi hỏi.
“Không khó lắm. Chẳng hạn, người Việt và người Tàu thoạt trông khá giống nhau, điểm khác biệt là người Việt có thói quen ngồi trong lớp thường khoanh tay lại. Tôi để ý thấy anh hay ngồi khoanh tay nên tôi chắc là anh đến từ Việt Nam.”

Tôi… giật mình. Chỉ đơn giản vậy sao? Có đúng là động tác vô thức ấy của tôi đã vô tình “tố giác” với mọi người rằng “I’m from Vietnam”? Cứ theo nhận xét của bà giáo ấy thì cử chỉ khoanh tay của tôi đã như một cách tự giới thiệu hay ngầm nói với mọi người rằng, “Tôi là người Việt Nam đây.”
Tôi không rõ liệu có những dân tộc nào khác có cùng thói quen khoanh tay như người Việt, chỉ biết là bà giáo người Mỹ ấy, một người ngoại cuộc rất khách quan, đã cho nhận xét như vậy. Hẳn bà phải quan sát trong nhiều ngày cái thói quen lặp đi lặp lại đó mới tìm ra được cái mẫu số chung để nhận diện người Việt qua cử chỉ khoanh tay ấy.
Kể từ hôm ấy, tôi để ý quan sát những bạn học người Việt của mình để thấy quả là bà giáo nói đúng, và phải cám ơn bà nữa vì đôi lúc tôi không chắc anh/cô sinh viên ấy có phải là người Việt cho đến khi tôi “bắt” được cử chỉ khoanh tay ấy.
Không những thế, tôi cũng nhiều lần “bắt quả tang” tôi đang ở tư thế khoanh tay khi ngồi trong lớp, khi ôn bài, khi chuyện trò, khi nghe nhạc, khi xem phim, khi đang suy nghĩ chuyện gì, khi đang nghỉ ngơi hoặc khi… không làm gì cả. Có vẻ tư thế này mang lại cho tôi cảm giác thoải mái, thư thái và dễ chịu.
Tôi cũng đôi lần thử tìm cách loại bỏ thói quen này nhưng không có kết quả, tư thế khoanh tay sau cùng vẫn trở về với tôi. Hầu như, chỉ một chút lơ là thiếu “cảnh giác” là tôi lại bắt gặp tôi đang… khoanh tay. Thói quen kỳ cục này như đã ăn sâu vào tiềm thức tôi từ đời thuở nào.
Thói quen này thực sự mang ý nghĩa gì? Không chỉ là cử chỉ, điệu bộ, nó hình thành một nét đẹp văn hóa truyền thống của người Việt mình, phát xuất từ nền giáo dục về phép tắc, lễ nghĩa mà cha mẹ, thầy cô giáo đã dạy dỗ con cái và học trò mình như những bài học vỡ lòng, chẳng hạn:
Khoanh tay chào bố mẹ khi đi học về. Khoanh tay chào khách đến chơi nhà. Khoanh tay cúi đầu chào hỏi người lớn tuổi.
Khoanh tay trước ngực hay khoanh tay lên bàn, mắt nhìn lên bảng, chăm chú lắng nghe lời giảng của thầy, cô.
Khoanh tay đứng lên chào thầy cô bước vào lớp hay chào khách đến thăm lớp học. Khoanh tay khi trả bài hay khi trả lời thầy cô giáo. Khoanh tay chào thầy cô ra về lúc tan học. Khoanh tay, úp mặt vào tường khi quậy phá bị bố mẹ hay thầy cô trách phạt.
Trong lớp học, giáo viên yêu cầu học trò khoanh tay lên bàn cũng là để “khóa” đôi tay nghịch ngợm của các em đang ở độ tuổi hiếu động, buộc các em chú tâm nghe thầy cô giảng bài.
Cử chỉ khoanh tay tỏ sự vâng phục, tôn kính các bậc trưởng thượng. Trẻ em biết khoanh tay chào hỏi, thưa gửi với người lớn tuổi được đánh giá là con nhà tử tế, có nề nếp, thừa hưởng nền giáo dục tốt, và bố mẹ cũng lấy đó làm điều hãnh diện.
“Cháu ngoan quá! Anh chị khéo dạy cháu quá.”
Người Việt cũng thường được thấy đứng hay ngồi với tư thế khoanh tay khi tham dự các nghi thức tôn giáo ở nhà thờ, nhà nguyện, chùa chiền hay những lễ lạc, hội nghị, diễn đàn… mang không khí tôn nghiêm, trang trọng.
Có lần bước vào một nhà thờ của giáo xứ người Mỹ, nhìn quanh, tôi bắt gặp đâu đó những người cùng màu da với mình đứng khoanh tay trong lúc tham dự thánh lễ. Nhớ lời bà giáo người Mỹ, tôi biết rằng đấy là những đồng hương của mình.
Cái văn hóa khoanh tay ấy hẳn đã có từ lâu đời. Các trường học ở miền Nam thời trước năm 1975 chỉ nối tiếp truyền thống mang bản sắc dân tộc ấy qua những bài học “dạy con từ thuở còn thơ” như là “thảo kính cha mẹ, “gọi dạ, bảo vâng”, “đi thưa, về trình”, “khoanh tay, cúi đầu”…

Lính Pháp và người dân Hà Nội đứng chờ học sinh khoanh tay xin đi qua đường. (Ảnh: Robert Capa/Hanoi, May 23, 1954)

Trẻ em, cho dù có được học đến dăm, bảy điều tốt (học tập tốt, lao động tốt, đoàn kết tốt, kỷ luật tốt, vệ sinh tốt) nhưng cái khoản “hạnh kiểm tốt” chả thấy đâu cả thì cũng khó mà “tốt” được. Cái gì cũng tốt, tốt, tốt mà khách khứa của bố mẹ đến chơi nhà, con cái cứ giương mắt ếch ra nhìn chả thèm chào hỏi thưa gửi chi cả thì vẫn gọi là… thiếu giáo dục.
Nói cho ngay, đấy chẳng phải lỗi của các em, vì có được ai dạy cho đâu mà biết. Giá mà học trò được thầy cô dạy cho những bài học “Có học phải có hạnh”, “Kính trên, nhường dưới”, “Kính thầy, yêu bạn” thì cũng bớt được những màn học sinh nam nữ đấm đá nhau tàn bạo như phim xã hội đen hoặc những màn “song đấu” kịch liệt giữa thầy và trò. Hơn thế nữa, cũng bớt được những biểu hiện của “hội chứng vô cảm” đang ngày càng có xu hướng phát triển khiến cho nền văn hóa “khoanh tay chào hỏi” từ bao đời được đổi thành “khoanh tay… đứng nhìn”.

Tôi thực tình không muốn đẩy câu chuyện đi xa hơn, như làm một sự so sánh giữa các nền giáo dục ở miền Nam và miền Bắc trước năm 1975 cũng như luôn tin rằng vẫn có nhiều người thầy, cô giáo trong nước vẫn âm thầm tận tâm tận lực dạy dỗ học trò mình những điều hay lẽ phải, giúp các em trở thành những con người tử tế, có tầm nhận thức đúng đắn để biết sống một đời sống có ý nghĩa và có ích cho xã hội.

Khoanh Tay Và Ngôn Ngữ Cơ Thể

Không chỉ bà giáo người Mỹ của tôi, một cô gái người Mỹ khác, Angela Schonberg, từng đặt chân đến Việt Nam, cũng cho một vài nhận xét về động tác “the crossing of the arms” của người Việt:
“The act of crossing your arms also has a different meaning in Vietnam. Instead of something that is done when someone is upset, here crossing your arms is considered a sign of respect.” Cô nói thêm, “In Vietnam, the ordinary posture people use while praying is arms folded.” (*)
Những nhận xét này cho thấy, các tư thế khoanh tay mang ý nghĩa khác nhau tùy vào sự khác biệt về văn hóa của các nước, không giống như cách hiểu của người Việt, hoặc có khi được hiểu ngược lại. Người Nhật chẳng hạn, khoanh tay và nhìn thẳng vào người đối diện được xem là điệu bộ khiếm nhã hay diễu cợt. Văn hóa chào hỏi của họ thể hiện bằng động tác đứng thẳng người, hai cánh tay duỗi thẳng dọc theo thân mình (hoặc xếp hai bàn tay phía trước nếu là phụ nữ) và cung kính cúi đầu chào, chứ không có chuyện khoanh tay, chắp tay chi cả.

  (Ảnh: Pete Souza/White House)

Các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ cơ thể còn tiết lộ rằng tư thế đứng hay ngồi khoanh tay tạo một hàng rào chắn với người đối diện, biểu tỏ sự nghi ngại, thụ động, không hứng thú và thiếu tự tin, ngụ ý “Tôi đang phòng thủ” hay “Tôi không đồng ý”. Hoặc, hơn thế nữa, biểu tỏ thái độ bất bình, kém thân thiện, thậm chí đối kháng mạnh mẽ, kiêu căng và thách thức.
Tư thế ngồi khoanh tay trước ngực, nghếch mặt lên, nhìn chằm chằm vào đối phương của Tổng Thống Mỹ Donald Trump trong cuộc tranh luận với các nhà lãnh đạo thuộc khối G7 tổ chức tại Quebec, Canada gần đây minh họa rõ nét cho dạng ngôn ngữ cơ thể này.

Ảnh: Jesco Denzel/German Federal Government/AP

Trở lại với văn hóa khoanh tay của người mình, tôi nhớ, khi còn cộng tác với một trường dạy tiếng Việt cho trẻ em người Mỹ gốc Việt, một phụ huynh nói với tôi rằng, “Muốn biết học sinh học được những gì ở một trường Việt ngữ, hãy đến thăm trường ấy trong giờ ra chơi của các em.” Trước đó, ông đã đến thăm trường này, và chỉ sau ít phút đứng quan sát các em trong giờ chơi, ông quyết định ghi tên cho con mình theo học tại trường. Ông đã “thấy” gì? Ông thấy các em nhỏ khi gặp thầy, cô giáo và các phụ huynh đều khoanh tay cúi đầu chào “Con chào Thầy/Cô”, “Con chào Cô/Chú”… Ông gặp lại mình, gặp lại hình ảnh cậu học trò nhỏ nhiều năm về trước, lễ phép khoanh tay cúi đầu chào thầy cô giáo, bố mẹ và những người lớn tuổi, và ông muốn con mình cũng được học hỏi về văn hóa chào hỏi ấy giống như ông.
Phần tôi, thỉnh thoảng gặp cháu bé nào lễ phép khoanh tay cúi đầu chào mình, tôi có hơi bất ngờ và lòng thấy vui vui, không hẳn vì được tôn trọng mà vì biết rằng cái nếp văn hóa cũ kỹ và đáng quý ấy vẫn còn đấy chứ chưa hề mất đi.
Cũng thỉnh thoảng, nhác trông thấy anh chàng hay cô nàng da vàng, tóc đen nào đó có cử chỉ khoanh tay vô thức như tôi, tôi có cái vui nhận ra những đồng hương của mình; hơn thế nữa, những đồng hương có chung một quá trình giáo dục về phép tắc lễ nghĩa của người Việt. Những khi ấy, tôi lại nhớ lời bà giáo người Mỹ, “Người Việt có thói quen ngồi khoanh tay trong lớp”. Tôi lại nhớ từng có lần muốn từ bỏ thói quen này, nhưng làm cách nào thì làm, động tác ấy như đã nằm sâu trong máu trong thịt, không sao tách rời khỏi tôi được.
Thế nhưng, việc gì phải thay đổi thói quen này chứ? Việc gì phải từ bỏ một tập quán tốt trong nếp sống văn hóa của người Việt? Việc gì phải từ bỏ cái “căn cước tỵ nạn” của mình, khi mà chính người nước ngoài đã nhắc cho ta nhớ ra rằng ta vẫn có chút gì gọi là bản sắc văn hóa của người Việt để phân biệt với những sắc dân da vàng khác. Không đáng tự hào sao?!
Khoanh tay đấy, có sao đâu! Hãnh diện nữa là khác. Như một cách tuyên xưng: “Tôi là người Việt Nam.”

Lê Hữu

Nguồn Internet – Nắng Cali Sưu Tầm

Related posts